Nhà Triều TiênTriều Tiên Tuyên TổQuang Hải QuânLý Thuấn Thần †,
Quyền Lật,
Liễu Thành Long,
Lý Ức Kỳ †,
Nguyên Quân †,
Kim Mệnh Nguyên,
Lý Dật,
Thân Lạp †,
Quách Tái Hữu,
Kim Thời Mẫn †Đại Minh Minh Thần Tông,
Lý Như Tùng †,
Lý Như Bá,
Hình Giới,
Dương Hạo,
Tổ Thừa Huấn,
Ma Quý,
Tiền Thế Trinh,
Đặng Tử Long,
Ngô Duy Trung,
Lưu Đinh,
Nhật BảnLãnh đạo tối cao
Toyotomi Hideyoshi Toyotomi HidetsuguTướng lĩnh Toyotomi Hidekatsu Ukita Hideie Kobayakawa Hidetoshi Kobayakawa Takakage Kobayakawa Hidekane Mōri Terumoto Mōri Hidemoto Mōri Yoshimasa Mōri Yoshinari Mōri Katsunobu Uesugi Kagekatsu Nabeshima Naoshige Hosokawa Tadaoki Katō Kiyomasa Katō Yoshiaki Shimazu Yoshihiro Shimazu Toyohisa Shimazu Tadatsune Hachisuka Iemasa Konishi Yukinaga Ōtomo Yoshimasa Tachibana Muneshige Tachibana Naotsugu Tsukushi Hirokado Ankokuji Ekei Ikoma Chikamasa Ikoma Kazumasa Kuroda Nagamasa Sō Yoshitoshi Fukushima Masanori Toda Katsutaka Chōsokabe Motochika Matsura Shigenobu Tōdō Takatora Kurushima Michifusa † Kurushima Michiyuki † Arima Harunobu Takahashi Mototane Akizuki Tanenaga Itō Suketaka Kuki Yoshitaka Wakisaka Yasuharu Ōmura Yoshiaki Sagara Yorifusa Gotō Sumiharu Ōtani Yoshitsugu Hasegawa Hidekazu Ikeda Hideo Gamō UjisatoMitaira Saemon Ōyano Tanemoto † Ishida Mitsunari Asano NagamasaTriều Tiên84.500 (lúc đầu) - 192.000 quân (tổng cộng)
[1] (bao gồm ít nhất 22.600 dân quân)
[1]300 tàu hải quân
[2]Trung QuốcLần thứ nhất (1592–1593)
43.000+
[3] Lần thứ hai (1597–1598)
Nhật BảnLần thứ nhất (1592–1593)
160.000 (ban đầu) - 235.000 (tổng cộng)
700 tàu vận tải, 300 tàu chiếnLần thứ hai (1597–1598)
Triều Tiên: khoảng 260.000 chết hoặc bị thương, 20.000 - 100.000 bị bắt, 157 tàu bị đánh chìm
Busan lần thứ nhất;
Tadaejin;
Dongnae;
Sangju;
Ch'ungju;
Okpo;
Sacheon lần thứ nhất;
Sông Imjin;
Dangpo;
Danghangpo;
Đảo Hansan;
Pyongyang lần thứ nhất;
Jeonju;
Haejeongchang;
Busan lần thứ hai;
1st Jinju;
Pyongyang lần thứ hai;
Byeokjegwan;
Haengju;
Jinju lần thứ hai;
Busan lần thứ ba;
Hwawangsan;
Chilcheollyang;
Namwon;
Myeongnyang;
Jiksan;
Ulsan;
Sacheon lần thứ hai;
NoryangChiến tranh Nhâm Thìn hay
Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên năm 1592 - 1598 (Hàn Quốc gọi là: Imjin War) là hai cuộc xâm lược riêng biệt nhưng có liên quan với nhau: cuộc xâm lược đầu tiên vào năm 1592 (Hàn Quốc gọi là: Imjin Disturbance), một thỏa thuận ngừng bắn ngắn vào năm 1596 và một cuộc xâm lược thứ hai vào năm 1597 (Hàn Quốc gọi là: Chongyu War). Cuộc xâm lực kết thúc vào năm 1598 với việc các lưc lượng Nhật Bản rút khỏi bán đảo Triều Tiên sau một loạt bế tắc quân sự ở các tỉnh phía nam Triều Tiên.Các cuộc xâm lược được phát động bởi
Toyotomi Hideyoshi với mục đích chinh phục
nhà Triều Tiên và
nhà Minh.
[7]. Người Nhật nhanh chóng thành công trong việc chiếm phần lớn bán đảo
Triều Tiên nhưng dưới sự chi viện của
nhà Minh, cũng như việc đánh phá các đường tiếp tế dọc theo bờ biển phía tây và phía nam của
hải quân Triều Tiên, đã buộc quân Nhật phải rút khỏi
Pyongyang (Bình Nhưỡng) và các tỉnh phía bắc. Chính Nghĩa quân (dân quân Triều Tiên) tiến hành chiến tranh du kích chống lại lực lượng chiếm đóng Nhật và những khó khăn trong việc tiếp tế ở cả 2 bên tham chiến. Vì vậy mà không phe nào phát động tấn công hoặc mở rộng vùng kiểm soát, việc này dẫn đến bế tắc về mặt quân sự. Giai đoạn đầu tiên của cuộc xâm lược kết thúc vào năm 1596 bằng các cuộc đàm phán hòa bình và không mấy thành công giữa Nhật Bản và Nhà Minh.Năm 1597, Nhật Bản tiếp tục xâm lược Triều Tiên lần thứ hai nhắm đến việc tấn công trả đũa người Triều Tiên. Cuộc xâm lược thứ hai cũng giống như cuộc xâm lược thứ nhất. Người Nhật đã có những thành công ban đầu trên đất liền, chiếm được một số tòa thành và pháo đài. Tuy nhiên với việc đánh phá các tuyến đường tiếp tế của hải quân Triều Tiên, các cánh quân Nhật phải dừng lại và rút về các khu vực ven biển phía nam của bán đảo. Dù vậy các lực lượng trên bộ của nhà Minh và Triều Tiên đã không thể đánh bật người Nhật khỏi các vị trí này và cả hai bên một lần nữa rơi vào thế bế tắc quân sự kéo dài mười tháng.Cái chết của Toyotomi Hideyoshi vào năm 1598, cùng những chiến thắng hạn chế trên đất liền, các lực lượng Nhật Bản đã được lệnh rút lui bởi Hội đồng Ngũ Nguyên Lão. Các cuộc đàm phán hòa bình cuối cùng giữa các bên sau đó và tiếp tục trong nhiều năm, cuối cùng dẫn đến việc bình thường hóa quan hệ.Hai lần viễn chinh này được gọi là
Những cuộc xâm lược Triều Tiên của Hideyoshi,
Chiến tranh Bảy năm (theo độ dài của cuộc chiến), ở
Hàn Quốc và
Bắc Triều Tiên gọi là
Nhâm Thìn Oa loạn ("Oa" là tên gọi mà người Triều Tiên hồi đó gọi Nhật Bản).
[8] Người Nhật gọi cuộc chiến là "Chiến dịch Triều Tiên" còn người Trung Quốc gọi là "Đông chinh" hoặc "Kháng Nhật viện Triều" (chi viện Triều Tiên kháng chiến chống Nhật Bản).
[9]